Hỏi đáp pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Hỏi: Vị trí và chức năng của Hội đồng nhân dân được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
- Theo Điều 119 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân có vai trò, vị trí rất quan trọng trong bộ máy chính quyền địa phương. Theo đó: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
- Cũng theo Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân có hai chức năng quan trọng:
+ Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
+ Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Hỏi: Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn gì?
Trả lời: Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, đại biểu Hội đồng nhân dân có 09 nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Phải gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; có trách nhiệm tham gia vào việc quản lý nhà nước ở địa phương và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước;
- Tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân;
- Liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình và chịu sự giám sát của cử tri; có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri;
- Có trách nhiệm báo cáo với cử tri kết quả của kỳ họp Hội đồng nhân dân, phổ biến và giải thích các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng nhân dân thực hiện các Nghị quyết đó;
- Có trách nhiệm trả lời các yêu cầu, kiến nghị của cử tri; nghiên cứu các khiếu nại, tố cáo của cử tri để kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết;
- Có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
- Có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó;
- Có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách chung của Nhà nước và những vấn đề thuộc lợi ích chung;
- Có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Hỏi: Quyền bầu cử là gì? Những ai có quyền bầu cử?
Trả lời: Quyền bầu cử là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hóa trong Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003. Cụ thể như sau:
Theo Điều 54 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 thì công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 (mười tám) tuổi trở lên đều có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử (Khoản 1 Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003).
Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tại Khoản 2 Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 cũng quy định người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người phải chấp hành hình phạt tù, người bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự nếu đến trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì có quyền được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.
Ngược lại, người có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri (Khoản 3 Điều 25 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003).
Hỏi: Quyền ứng cử là gì? Những ai có quyền ứng cử?
Trả lời: Quyền ứng cử là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân. Cụ thể:
Theo Điều 54 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 thì công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 21 (hai mươi mốt) tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Để được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân, người ứng cử còn phải bảo đảm những tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 3 của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 như sau:
+ Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương;
+ Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
+ Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương;
+ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
+ Có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Đồng thời, người ứng cử không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 31 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003. Cụ thể như sau:
- Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự;
- Người đang bị khởi tố về hình sự;
- Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án;
- Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa được xoá án tích;
- Người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Hỏi: Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử được quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 và Điều 1 Nghị quyết 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011, cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử, ứng cử được thực hiện như sau:
- Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sau đây gọi là ngày bầu cử) đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định (ngày 22/5/2011). Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào Sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm sau.
- Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
Như vậy công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, tính đến ngày 22/5/2011 mà đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Hỏi: Người ứng cử có thể được bầu ở Hội đồng nhân dân mấy cấp?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 4 của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung năm 2010, công dân có đủ điều kiện và tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân không quá hai cấp; nếu đang là đại biểu Quốc hội thì chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân ở một cấp.
Hỏi: Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và thôn, tổ dân phố được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010.
- Căn cứ vào số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được phân bổ, cơ quan, tổ chức, đơn vị và thôn, tổ dân phố (đối với cấp xã) tiến hành giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân như sau:
+ Đối với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội thì Ban lãnh đạo dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó làm việc. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường vụ mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
+ Đối với cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế thì Ban lãnh đạo phối hợp với Ban chấp hành công đoàn cơ quan dự kiến người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó làm việc. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo cơ quan tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, đơn vị, tổ chức, Ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
+ Đối với các đơn vị vũ trang nhân dân thì lãnh đạo, chỉ huy dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó làm việc. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện Ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
+ Ở thôn, tổ dân phố thì Ban công tác Mặt trận dự kiến người của thôn, của tổ dân phố ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã và phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức Hội nghị cử tri để thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải chuyển biên bản Hội nghị cử tri nơi làm việc và biên bản hội nghị lãnh đạo mở rộng của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình về việc thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đến Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức Hội nghị hiệp thương.
- Ban công tác Mặt trận chuyển biên bản Hội nghị cử tri ở thôn, tổ dân phố về việc thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã đến Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Hỏi: Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 được bầu bao nhiêu người?
Trả lời: Theo Điều 9 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 và Quyết định 215/QĐ-TTg ngày 16/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc hướng dẫn cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 quy định như sau:
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh:
+ Tỉnh miền xuôi và thành phố trực thuộc Trung ương có từ 1.000.000 (một triệu) người trở xuống được bầu 50 (năm mươi) đại biểu, có trên 1.000.000 (một triệu người) thì cứ thêm 50.000 (năm mươi nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 (tám mươi lăm) đại biểu;
+ Tỉnh miền núi có từ 500.000 (năm trăm nghìn) người trở xuống được bầu 50 (năm mươi) đại biểu, có trên 500.000 (năm trăm nghìn) người thì cứ thêm 30.000 (ba mươi nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá tám mươi lăm đại biểu;
+ Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác có trên 3.000.000 (ba triệu) người được bầu không quá 95 (chín mươi lăm) đại biểu.
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện:
+ Huyện miền xuôi và quận có từ 80.000 (tám mươi nghìn) người trở xuống được bầu 30 (ba mươi) đại biểu, có trên 80.000 (tám mươi nghìn) người thì cứ thêm 10.000 (mười nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 (bốn mươi) đại biểu;
+ Huyện miền núi và hải đảo có từ 40.000 (bốn mươi nghìn) người trở xuống được bầu 30 (ba mươi) đại biểu, có trên 40.000 (bốn mươi nghìn) người thì cứ thêm 5.000 (năm nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 (bốn mươi) đại biểu;
+ Thị xã có từ 70.000 (bảy mươi nghìn) người trở xuống được bầu 30 (ba mươi) đại biểu, có trên 70.000 (bảy mươi nghìn) người thì cứ thêm 10.000 (mười nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 (bốn mươi) đại biểu;
+ Thành phố thuộc tỉnh có từ 100.000 (một trăm nghìn) người trở xuống được bầu 30 (ba mươi) đại biểu, có trên 100.000 (một trăm nghìn) thì cứ thêm 10.000 (mười nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 (bốn mươi) đại biểu;
+ Đối với các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nếu có từ 30 (ba mươi) đơn vị hành chính trực thuộc trở lên được bầu trên 40 (bốn mươi) đại biểu; số lượng cụ thể do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã:
+ Xã, thị trấn miền xuôi có từ 4.000 (bốn nghìn) người trở xuống được bầu 25 (hai mươi lăm) đại biểu, có trên 4.000 (bốn nghìn) người thì cứ thêm 2.000 (hai nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 (ba mươi lăm) đại biểu;
+ Xã, thị trấn miền núi và hải đảo có từ 3.000 (ba nghìn) người trở xuống đến 2.000 (hai nghìn) người được bầu 25 (hai mươi lăm) đại biểu, có trên 3.000 (ba nghìn) người thì cứ thêm 1.000 (một nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 (ba mươi lăm) đại biểu; xã, thị trấn có dưới 2.000 (hai nghìn) người trở xuống đến 1.000 (một nghìn) người được bầu 19 (mười chín) đại biểu; xã, thị trấn có dưới 1.000 (một nghìn) người được bầu 15 (mười lăm) đại biểu;
+ Phường có từ 8.000 (tám nghìn) người trở xuống được bầu 25 (hai mươi lăm) đại biểu, có trên 8.000 (tám nghìn) người thì cứ thêm 4.000 (bốn nghìn) người được bầu thêm 01 (một) đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 (ba mươi lăm) đại biểu.
Hỏi: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 43 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 và Khoản 2 Điều 10 Nghị quyết số 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011 hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016:
- Kể từ ngày công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì công dân có quyền khiếu nại, tố cáo về người ứng cử; khiếu nại, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử với Ban bầu cử ở cấp đó. Ban bầu cử phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo thẩm quyền.
Trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì có quyền khiếu nại, kiến nghị với Ủy ban bầu cử. Quyết định của Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
- Trong thời hạn 10 (mười) ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử ngưng việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.
Những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đã được tiếp nhận trước thời điểm này vẫn tiếp tục được xem xét, giải quyết. Trong trường hợp những khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đủ tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân thì Ủy ban bầu cử các cấp quyết định xoá tên người đó trong danh sách những người ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri biết.
- Không xem xét, giải quyết đối với đơn tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo, đơn tố cáo mạo tên người tố cáo hoặc không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký, đơn tố cáo đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới.
- Ủy ban bầu cử chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết và những khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết nhưng đương sự vẫn không đồng ý đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp khoá mới để giải quyết theo thẩm quyền.
Hỏi: Cử tri có thể đăng ký đi bầu cử ở đâu?
Trả lời:
Theo Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung năm 2010 và Nghị quyết số 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011 hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thì công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đủ mười tám tuổi trở lên và không thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri quy định tại Điều 25 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký thường trú và thực hiện quyền bầu cử tại nơi đó.
Trong thời gian lập danh sách cử tri, những người có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan có thẩm quyền ở nơi cư trú cũ thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi cư trú mới để tham gia bầu cử, cụ thể như sau: thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp huyện được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội; thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp tỉnh được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội; thay đổi nơi cư trú đến đơn vị hành chính cấp tỉnh khác thì được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội.
Đối với sinh viên, học sinh, học viên có sổ tạm trú ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi học tập, công tác hoặc nơi đóng quân để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Cử tri là người lao động tại các khu công nghiệp tập trung, các doanh nghiệp có đăng ký tạm trú, lưu trú thì được ghi tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bỏ phiếu, cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị vũ trang nhân dân đang đi công tác và những người di cư tự do, đi lao động, làm việc, đi thăm người thân, đi du lịch ở nơi nào thì xuất trình với Uỷ ban nhân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi mới đến Thẻ cử tri hoặc Giấy chứng nhận "Đi bỏ phiếu nơi khác" do Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc do chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp để được ghi tên bổ sung vào danh sách cử tri, tham gia bỏ phiếu ở nơi đó và được tính vào tổng số cử tri ở nơi mới đến. Nếu họ chưa có Thẻ cử tri, Giấy chứng nhận "Đi bỏ phiếu nơi khác" thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi mới đến yêu cầu những người này liên hệ với Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc chỉ huy đơn vị nơi lập danh sách cử tri trước ngày niêm yết danh sách cử tri để nhận Thẻ cử tri hoặc Giấy chứng nhận "Đi bỏ phiếu nơi khác" để được bầu cử ở nơi mới đến. Nếu thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp huyện thì được bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội; thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp tỉnh thì được bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội; thay đổi nơi cư trú đến đơn vị hành chính cấp tỉnh khác thì được bầu đại biểu Quốc hội.
Công dân Việt Nam công tác, lao động, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc định cư ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ, thì đến Uỷ ban nhân dân cấp xã xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để ghi tên vào danh sách cử tri và nhận Thẻ cử tri để được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký thường trú); được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (nếu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú).
Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập danh sách cử tri và cấp giấy chứng nhận "Đi bỏ phiếu nơi khác".
Hỏi: Trường hợp người vừa câm, vừa điếc lại không biết chữ thì có được ghi tên vào danh sách cử tri hay không?
Trả lời: Người vừa câm, vừa điếc không thuộc các trường hợp quy định không được ghi tên vào danh sách cử tri, vì vậy, người vừa câm, vừa điếc đều được ghi tên vào danh sách cử tri, tham gia bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Về việc viết và bỏ phiếu, nếu họ không tự viết được phiếu bầu thì áp dụng theo quy định: "Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu".
Hỏi: Vận động bầu cử là gì? Việc tổ chức vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải đảm bảo yêu cầu gì?
Đáp:
Theo quy định của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân và các văn bản pháp luật có liên quan:
- Vận động bầu cử của người ứng cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc cử tri hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng để người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu và trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm.
Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương nào thì thực hiện quyền vận động bầu cử ở địa phương đó.
- Trong thời gian tổ chức vận động bầu cử phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
+ Công khai, dân chủ, bình đẳng và xây dựng trong vận động bầu cử, tạo không khí trao đổi thẳng thắn, cởi mở giữa người ứng cử và cử tri;
+ Không được lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, uy tín và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác;
+ Không biến vận động bầu cử thành nơi để khiếu nại, tố cáo hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
+ Không được lạm dụng uy tín, chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử;
+ Không được lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình;
+ Không được sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân để lôi kéo, mua chuộc cử tri;
+ Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình vận động bầu cử.
Hỏi: Như thế nào là phiếu hợp lệ và phiếu không hợp lệ?
Trả lời:
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Nghị quyết số 1020/2011/UBNTVQH12 ngày 14/2/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 quy định cụ thể về việc xác định phiếu hợp lệ và phiếu không hợp lệ:
- Những phiếu sau đây là phiếu hợp lệ:
+ Phiếu bầu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát, có dấu của Tổ bầu cử;
+ Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
+ Phiếu bầu gạch tên ứng cử viên không được tín nhiệm bằng cách gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang, nhưng phải gạch hết họ và tên.
- Những phiếu sau đây là phiếu không hợp lệ:
+ Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
+ Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
+ Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
+ Phiếu gạch, xoá hết họ, tên những người ứng cử;
+ Phiếu ghi tên người ngoài danh sách những người ứng cử; phiếu có viết thêm; phiếu gạch vào khoảng cách giữa họ và tên hai ứng cử viên; phiếu khoanh tròn họ và tên ứng cử viên.
Hỏi: Việc bầu cử thêm, bầu cử lại đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ diễn ra khi nào?
Trả lời:
Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ hai phần ba số đại biểu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì tổ chức bầu cử thêm số đại biểu còn thiếu. Ở đơn vị bầu cử nào, nếu số cử tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì tổ chức bầu cử lại. Việc bầu cử thêm, bầu cử lại phải được tiến hành chậm nhất là 15 (mười lăm) ngày sau ngày bầu cử đầu tiên.
Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ 2 (hai); nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì không tổ chức bầu cử lại lần thứ 2 (hai).
Hỏi: Vi phạm pháp luật về bầu cử được là gì? Bao gồm những hành vi phổ biến nào? Hình thức xử lý?
Trả lời:
Vi phạm pháp luật về bầu cử là những hành vi làm trái các quy định của pháp luật về bầu cử, bao gồm những hành vi sau đây:
- Dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội của công dân;
- Người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử;
- Cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo về bầu cử.
Người nào có các hành vi vi phạm kể trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự đã quy định cụ thể về tội phạm và hình phạt đối với các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân.
Nguồn:sotuphap.thaibinh.gov.vn Copy link